Wednesday, September 21, 2022

Sở Liên Lạc Nha Kỹ Thuật

Sở Liên Lạc/PTT còn có một danh xưng vỏ bọc khác là “Trung Ương Cục” để đối đầu với “Trung Ương Cục Miền Nam” của Cộng Sản, còn được gọi là “Cục R”.  Trụ sở của Sở Liên Lạc/PTT được đặt tại một khu vực phía sau Bộ Tổng Tham Mưu, gần Nghĩa Trang Bắc Việt và Sân Vận Ðộng Quân Ðội.  Cố Ðại Tá Lê Quang Tung và Cố Ðại Tá Trần Khắc Kính là 2 người đầu tiên đã bỏ ra rất nhiều công sức để xây dựng một nền tảng vững chắc cho Sở Liên Lạc/PTT, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và hoạt động của Sở Khai Thác Ðịa Hình, Phòng E45 hay Sở Bắc và Nha Kỹ Thuật sau này.  Cũng trong gian đoạn này, Ðại Úy Trần Văn Hổ (Cố Ðại Tá) được bổ nhiệm làm Phó Giám Ðốc Sở Liên Lạc/PTT trong một thời gian ngắn.  Ngày 1 tháng 11 năm 1957, một Liên Ðoàn “hành động” đầu tiên được thành lập, có danh xưng là Liên Ðoàn Quan Sát Số 1, đặt dưới quyền chỉ huy của Cố Ðại Úy Bùi Thế Minh và trực thuộc Sở Liên Lạc/PTT.

 Vào khoảng cuối năm 1958, cơ cấu tổ chức của Sở Liên Lạc/PTT gồm có:

•         Phòng 35 – Có nhiệm vụ tổ chức và chỉ huy hành quân, huấn luyện cán bộ, thanh tra các Trung Tâm Huấn Luyện cùng gởi nhân viên ra ngoại quốc thụ huấn, v.v...  Phòng 35 do Ðại Úy Trần Khắc Kính, Phó Giám Ðốc Sở Liên Lạc/PTT kiêm nhiệm cùng với phụ tá Trần Lai Miên.

•         Phòng 45 còn được gọi là Sở Bắc, có nhiệm vụ tổ chức hệ thống tình báo chiến lược của VNCH tại miền Bắc và quốc ngoại.  Trưởng Phòng là Ðại Úy  Ngô Thế Linh (Cố Ðại Tá), cùng một số các sĩ quan phụ tá như Nguyễn Bảo Thùy, Ðỗ Văn Tiên, Nguyễn Nghệ trực tiếp trông coi và điều hành.  Sau này, Phòng 45 hay Sở Bắc được cải tổ lại thành Sở Công Tác, trực thuộc Nha Kỹ Thuật/BTTM/QLVNCH vào đầu năm 1971.

•         Phòng 55 còn được gọi là Sở Nam, có nhiệm vụ đặt cán bộ nồng cốt tại miền Nam Việt Nam để xây dựng và thành lập các thành phần kháng chiến nằm vùng, đề phòng trường hợp Cộng Sản Bắc Việt tràn xuống miền Nam.  Trưởng Phòng 55 là Nguyễn Qúy Huỳnh, và sau đó là Trần Văn Minh.  Sau này, Phòng 55 hay Sở Nam được cải tổ lại thành Sở Liên Lạc, trực thuộc Nha Kỹ Thuật/BTTM/QLVNCH vào năm 1964.

•         Phòng 65 chuyên lo về An Ninh Quân Ðội, kiểm soát những thành phần nội công và gián điệp Cộng Sản.  Lê Ðình Ngân, Ðàm Thế Công và Nguyễn Qúy Hùng là những người đầu tiên trực tiếp điều hành Phòng 65.

•         Phòng 75 có nhiệm vụ trông coi, thu thập và lưu giữ hồ sơ cùng những tài liệu mật có liên quan đến các hoạt động của Sở Liên Lạc/PTT.

•         Phòng 78 có trách nhiệm về tài chánh và hành chánh, điều hành các ngân khoản trợ cấp cho các hoạt động của Bộ Chỉ Huy (BCH) Sở cũng như các cuộc hành quân của Toán.

•         Phòng 95 là Phòng Truyền Tin, chỉ huy Ðại Ðội Truyền Tin 660, có trách nhiệm tổ chức và huấn luyện chuyên viên truyền tin cho các Toán, phân phối máy móc và giữ liên lạc truyền tin giữa BCH Sở và các Toán hoạt động tại Bắc Việt, quốc nội cũng như quốc ngoại.  Trưởng Phòng 95 là cựu Ðại Tá Mai Viết Triết.

Từ năm 1957 đến năm 1959, Sở Liên Lạc/PTT bắt đầu khởi sự việc huấn luyện về chiến tranh ngoại lệ cho các cán bộ cấp chỉ huy và các đơn vị trực thuộc.   Năm 1959, Trung Tá Lê Quang Tung, Thiếu Tá Trần Khắc Kính và Ðại Úy Trần Văn Hổ là 3 người Việt Nam đầu tiên tham dự khóa Chiến Tranh Ngoại Lệ trên đảo Saipan, một hòn đảo nhỏ do Hoa Kỳ kiểm soát tại Thái Bình Dương.  Sau đó, Thiếu Tá Trần Khắc Kính và Thiếu Tá Cố Vấn Hoa Kỳ Russel Flyn Miller hướng dẫn 12 sĩ quan của Sở Liên Lạc/PTT qua Saipan học khóa Chiến Tranh Ngoại Lệ để điều hành chương trình Hành Quân Bắc Tiến của Sở.  Mười hai sĩ quan của Sở Liên Lạc/PTT tham dự khóa này gồm có:

1.         Ðại Úy Ngô Thế Linh

2.         Ðại Úy Ðàm Minh Viên

3.         Trung Úy Nguyễn Khắc Hy

4.         Trung Úy Nông An Pang

5.         Trung Úy Trần Bá Tuân

6.         Trung Úy Văn Công Báu

7.         Trung Úy Nguyễn Quang Trung

8.         Trung Úy Nguyễn Bảo Thùy

9.         Trung Úy Lê Ngọc Cẩn

10.        Trung Úy Phạm Văn Minh

11.        Thiếu Úy Nguyễn Nghệ

12.        Thiếu Úy Lê Quang Triệu (bào đệ Cố Ðại Tá Lê Quang Tung).

Vào tháng Ba năm 1961, để chuẩn bị cho một chuyến công tác dài hạn xâm nhập miền Bắc, Phòng 45 gởi một điệp viên đơn độc (singleton) là Vũ Công Hồng, bí danh Hirondelle, vượt sông Bến Hải qua vùng Phi Quân Sự, hoạt động dọc theo vĩ tuyến 17 trong một công tác ngắn hạn của Phòng 45.  Hai tuần sau, điệp viên Hirondelle trở lại miền Nam cùng với một số tin tức về đường đi nước bước và hệ thống an ninh của miền Bắc.  Chuyến công tác này coi như thành công và mang lại nhiều phấn khởi cho Phòng 45.

Ðầu tháng Tư năm 1961, một điệp viên đơn độc khác của Phòng 45 (singleton) tên Phạm Chuyên, bí danh Ares hay Hạ Long, rời bãi biển Ðà Nẵng bằng thuyền Nautilus 1, lặng lẽ xâm nhập vào vùng biển Quảng Ninh rồi sau đó chèo xuồng đổ bộ vào một làng đánh cá gần Cẩm Phả, Hòn Gai – Bắc Việt, bắt đầu thi hành một công tác dài hạn.  Khoảng 2 tuần sau, người điệp viên bí danh Ares gởi một bức điện văn đầu tiên về cho Phòng 45 và cơ quan CIA tại Sàigòn.  Chuyến công tác xâm nhập coi như thành công!  Sau đó, điệp viên Ares gởi thêm 22 bản báo cáo nữa cho đến tháng Sáu năm 1961 thì đột nhiên mất tích...  Ngày 8 tháng Tám năm 1961, Phòng 45 lại nhận được một điện văn của điệp viên Ares sau gần 2 tháng mất liên lạc, cắt nghĩa về sự vắng mặt của mình và yêu cầu xin tiếp tế...  Từ đó, thỉnh thoảng điệp viên Ares vẫn liên lạc với Trung Ương tại Sàigòn, báo cáo những tin tức quan trọng về nhà máy điện tại Uông Bí, hệ thống cầu cống, xe lửa, xa lộ và hải cảng Hải Phòng, v.v... cho đến năm 1968 thì mất liên lạc hẳn.

Cũng vào tháng Tư năm 1961, Sở Liên Lạc/PTT được đổi tên là Sở Khai Thác Ðịa Hình, trực thuộc Phủ Tổng Thống.  Tuy nhiên, Sở Khai Thác Ðịa Hình/PTT vẫn duy trì các cơ cấu tham mưu của Sở Liên Lạc/PTT để tiếp tục hoạt động.  Bộ Chỉ Huy Sở Khai Thác Ðịa Hình/PTT dùng danh hiệu đặc biệt “KHIÊM QUANG”.  Mỗi chữ của danh hiệu này là tên của một Phòng.  Mỗi Phòng được giao phó một nhiệm vụ tham mưu hay một công tác đặc biệt.  Theo nguyên tắc này, Phòng 45 hay Sở Bắc được đặt tên là Phòng E và do đó thường được gọi là Phòng E45.  Cũng vào thời điểm này, Liên Ðoàn Quan Sát Số 1 đổi tên thành Liên Ðoàn 77 và được thuyên chuyển từ Quân Trường Ðồng Ðế – Nha Trang về đóng tại Trại Hùng Vương, phía sau trường đua Phú Thọ – Sàigòn.

Danh xưng Đòan 1,2 và 3 của Sở Liên Lạc, Nha Kỹ Thuật bắt đầu vào 1 tháng 5 năm 1973 cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi cơ quan MACV SOG chánh thức ra khỏi chiến trường Việt Nam cùng các đơn vị khác của Hoa Kỳ và Đồng Minh trong chương trình Việt Nam Hóa chiến tranh Việt Nam.
Tóan Yễm Trợ Nha Kỹ Thuật (Strategic Technical Directorate Assistance Team 158) STDAT-158
chính thức họat động tại Nha Kỹ Thuật vào ngày 24 tháng 4 năm 1972 do Công Văn của cơ quan MACV Directive 870-1 hồ sơ bí mật TOP SECRET vào 7 tháng 2 năm 1973 và đã được giải mật.

Trước đây Sở Liên Lạc xử dụng danh xưng Chiến Đòan 1, 2 và 3 Xung Kích, Sở Liên Lạc Nha Kỹ Thuật.
Cơ quan MACV-SOG thành lập tại Chợ Lớn Việt Nam vào ngày 24 tháng 1 năm 1964 và năm nay 2014 Đại Hội SOA sẽ làm lễ Kỹ Niệm 50 năm ngày thành lập MACV-SOG tại Las Vegas, Nevada Hoa Kỳ.
Trước khi có danh xưng Chiến Đòan 1,2 và 3 Sở Liên Lạc đã có những Tiền Doanh như sau:

Forward Operating Base (Tiền Danh)
FOB1/Tiền Danh 1 Phú Bài, Huế 1965, Khâm Đức 1966
FOB2/ Tiền Danh 2 Kontum 1965
FOB3/Tiền Danh 3 Ban Mê Thuộc 1965 Kontum, Khe Sanh 1968
FOB4/ Non Nước Đà Nẵng 1965, 1968
FOB5/ Ban Mê Thuộc 1968, Thủ Đức
FOB6/ Đà Lạt 1965, Hồ Ngọc Tảo 1968
Và tiếp đó là danh xưng Command and Control từ 1964 cho đến 1 tháng 11 năm 1967 Danh Xưng 
CCN, CCC và CCS (Chiến Đòan 1,2 và 3 Xung Kích) 
xử dụng tiếp tục đến tháng 5 năm 1973

Dưới đây là một số tài liệu và những bảng phóng đồ cũng như tài chánh kiểm kê tại Kho 50 Nha Kỹ Thuật 
khi Tóan cố vấn 158 Nha Kỹ Thuật họat động từ tháng 24 tháng 4 năm 1972 cho đến ngày 12 tháng 3 năm 1973.

Tài liệu đính kèm:
May 1st 1972
Nha Kỹ Thuật Toán Yễm Trợ 158 (1972-1973)
STDAT-158 TEAM (Strategic Technical Directorate Assistance Team -158)

Establised / Thành Lập 1965
Forward Operating Base
FOB1/Tiền Doanh 1 Phú Bài, Huế 1965, Khâm Đức 1966
FOB2/ Tiền Doanh 2 Kontum 1965
FOB3/Tiền Doanh 3 Ban Mê Thuộc 1965 Kontum, Khe Sanh 1968
FOB4/ Non Nước Đà Nẵng 1965, 1968
FOB5/ Ban Mê Thuộc 1968, Thủ Đức
FOB6/ Đà Lạt 1965, Hồ Ngọc Tảo 1968
Febuary 1971
SMAG (Special Mission Advisory Group) / 1971, 1972
1966, 1967, 1968 & 1969 C&C Command & Control
Established / Thành Lập
1.11.1967 / November 1st, 1967 1967,1968, 1969, 1970,1971

CCN Command and Control North / 
Chiến Đoàn 1 Xung Kích Phú Bài, Non Nước
CCC Command and Control Center
Chiến Đoàn 2 Xung Kích Kontum, Pleiku
CCS Command and Control South
Chiến Đoàn 3 Xung Kích Ban Mê Thuộc

TF1AE (Task Force One Advisory Element) 
70,71 & 72
TF2AE ( Task Force Two Advisory Element) 
Kontum / 70,71&72
TF3AE (Task Force Three Advisory Element)  
Ban mê thuộc / 70,71 & 72

B53/ Long Thành 1970, 1971,1972
B50/ Project Omega FOB2 1966, 67, 68 Kontum
B56/ 1967, 1968 Hồ Ngọc Tảo

Căn Cứ Xuất Phát
(Launch Site) cho xâm nhập ngoại biên Quản Lợi, Benhet, Đức Cơ, Plei-Jereng, Tân Cảnh, Phú Bài, Khe Sanh và NKP (Nakaphadon) Thái Lan.

FOB1 (CCN) Launch Site 
(Căn Cứ Xuất Phát) Đông Hà, Khe Sanh, Phú Bài, NKP Thái Lan.
FOB2 (CCC) Launch Site Benhet, Đức Cơ, Dakto, Pleime, Plei-Jereng, Tân Cảnh.
FOB3 (CCS) Launch Site Quản Lợi

Sở Liên Lạc và Tôi - Thiếu Tá Lê Minh CHT Chiến Đoàn 2 Xung Kích

Xuống taxi ngay ngã 3 vào Bắc Việt Nghĩa Trang, tôi tìm địa chỉ Sở Liên Lạc (SLL) để trình diện vào khoảng cuối năm 1964. Thấy trước mặt bên tay phải là một doanh trại có trạm gác, tôi bèn đến hỏi thăm thì quả đúng là SLL đây rồi. Tuy nhiên, vì thấy người lính gác cổng mặc quân phục Dù, đội nón đỏ nên tôi không biết chắc đó có phải là SLL hay không, vì khi được lệnh về trình diện SLL, tôi cũng không biết đơn vị này hoạt động như thế nào? Thấy được thuyên chuyển về SLL, tôi đinh ninh đây là một đơn vị chuyên về hành chánh. Do đó, khi được người lính gác cổng cho biết đây là SLL, tôi hết sức bàng hoàng và nghĩ nhanh trong đầu: “Bộ mình được thuyên chuyển về Nhảy Dù sao?” Sau đó, tôi được sĩ quan trực cổng hướng dẫn vào Phòng 1 để trình diện. Trên đường từ cổng vào, tôi thấy doanh trại được thiết lập theo hình chữ U trông thật bề thế. Ở giữa khoảng sân rộng là một cột cờ cao và một lá cờ thật lớn đang căng rộng trên khoảng không gian đầy mây trắng. Song song với 2 dãy doanh trại là 2 hàng phượng vĩ trùm, đầy hoa đỏ thắm.

Hai vị sĩ quan tôi gặp đầu tiên là Đại úy Lê quang Tiềm và Trung úy Trần lưu Huân. Hai vị này rất niềm nở, và hỏi sao tôi về trình diện trễ quá vậy! Tôi trình Sự Vụ Lệnh (SVL), và cho họ biết tôi mới nhận được SVL cách nay có 3 hôm. Nhưng vì đơn vị thiếu sĩ quan (SQ) nên gần 3 tháng sau, khi có lệnh thuyên chuyển tôi mới được ra đi. Sau này, tôi được biết các anh Lê tấn Thành, Tống hồ Huấn, Trần trung Ginh, v.v. đã về trình diện trước tôi hơn 3 tháng. Sau đó, tôi được Trung úy Huân hướng dẫn lên trình diện Chỉ Huy Trưởng (CHT) SLL. Lúc bấy giờ, Đại tá Hồ Tiêu còn là Trung tá. Ông rất cởi mở, vui vẻ hỏi thăm tôi về những hoạt động của binh chủng Biệt Động Quân. Ông có nhiều nhận xét rất chính xác về hoạt động cũng như hiệu năng của binh chủng này. Ra khỏi văn phòng CHT, tôi lại được Trung úy Nham hướng dẫn giới thiệu các Ban, Phòng của SLL. Qua các phòng, tôi thấy mọi người đều cởi mở và thân thiện khiến tôi cũng bớt bỡ ngỡ.

Phần lớn các sĩ quan SLL đều thuyên chuyển từ Sư Đoàn Nhảy Dù sang, và được tuyển chọn từ những sĩ quan xuất sắc ở các Tiểu Đoàn Dù thiện chiến, như Trung tá Nguyễn viết Cần, Trung tá Liêu quang Trung, Đại úy Phan trọng Sinh, v.v. Riêng các Thiếu úy Văn thạch Bích, Nguyễn thái Kiên, Phạm văn Hy, Nguyễn văn Thụ, Phan nhựt Văn, Vương vĩnh Phát, Nguyễn hải Triều, Đoàn kim Tuấn, đều là những SQ Trung Đội Trưởng hoặc Đại Đội Trưởng xuất sắc, thuộc các Tiểu Đoàn Dù tuyển chọn về. Ngoài ra, còn có Đại úy Nguyễn mạnh Tường và Đại úy Nguyễn văn Thanh, từ Côn Đảo trở về sau khi tham gia cuộc đảo chánh năm 1960 bất thành. Nhìn tác phong của các vị này tôi ngưỡng mộ hết sức.

Tôi được bổ sung vào Phòng 3, Trưởng Phòng là Đại úy Nguyễn mạnh Tường. Phòng 3 lúc bấy giờ đã có 6-7 SQ rồi. Trong thời gian này, các Tiền Doanh chưa được thành lập nên công việc cũng chưa có gì nhiều. Hằng ngày, chúng tôi chỉ có việc lên bản đồ qua những tin tức do các hộp thư từ bên Lào gửi về. Tôi chỉ ngồi chờ ngày đi học nhảy dù! Được biết SLL lúc thành lập nằm trong Bộ Tổng Tham Mưu, và mới di chuyển về đây một vài tháng nay thôi. Doanh trại này trước kia thuộc BTL/LLĐB. Sau cách mạng 63, LLĐB di chuyển về Nha Trang, và SLL từ trong Bộ TTM dời về đây. Doanh trại còn rất nhiều phòng trống, giấy tờ nằm ngổn ngang trong các phòng ốc, tủ và bàn giấy. Do đó, nhóm SQ độc thân chúng tôi phải thu dọn, và sau đó mỗi người chiếm một phòng thật thoải mái. Ở trong trại, tới giờ ăn thì chúng tôi ra ngoài Lăng Cha Cả ăn 2 bữa trưa và chiều, rất tiện lợi. Nhưng không có việc gì làm, chỉ ngồi chờ ngày đi học nhảy dù nên tôi bắt đầu nhớ những ngày ở Biệt Động Quân... Cũng may, sau gần hơn tháng ngồi chơi tôi theo học khóa 58A Nhảy Dù ở Trung Tâm Huấn Luyện Sư đoàn ND. Mãn khóa Dù, khoảng nửa tháng sau, tôi cùng 5 sĩ quan khác lên Trung Tâm Huấn Luyện Long Thành tham dự khóa Thám Sát, do các cố vấn Mỹ hướng dẫn. Khóa học rất hữu ích, và cho tôi rất nhiều kinh nghiệm trong thời gian hơn 2 năm tôi nắm Toán Trưởng sau này. Sau gần 3 tháng huấn luyện và hành quân thực tập, chúng tôi 5 SQ, nắm 5 toán Lôi Hổ đầu tiên, gồm có: Thiếu úy Văn thạch Bích, Nguyễn thái Kiên, Nguyễn văn Thụ, Phạm văn Hy, và tôi.

Trong thời gian này các Tiền Doanh chưa có, chỉ có C&C ở Đà Nẵng thôi.

Chúng tôi từ Long Thành mỗi lần đi hành quân, điểm xuất phát là các trại Khâm Đức, hay trại Khe Sanh, trại A-Shao, thuộc các trại A Lực Lượng Đặc Biệt. Xong hành quân là về lại Long Thành. Mỗi toán chúng tôi đều có 1 phòng ở đây. Đi phép xong, trở về Long Thành, lên C130 đi hành quân tiếp. Mỗi lần ra Khe Sanh hay Khâm Đức hành quân, nếu gặp thời tiết tốt thì ngày hôm sau là “Go” ngay. Tuy nhiên, gặp những ngày thời tiết xấu thì nản hết sức. Có khi cả tuần hay nửa tháng mới xâm nhập được! Đi hành quân mà ngoài vũ khí và đạn dược ra, chúng tôi còn phải mang theo 1 túi xách để chứa khăn tắm, quần áo lót, bàn chải và kem đánh răng, đề phòng thời tiết xấu không xâm nhập được. Cũng may, chúng tôi chỉ chịu đựng như thế đâu khoảng hơn nửa năm thì thành lập các Tiền Doanh hay FOB (Forward Operation Base), và sau đó tôi được thuyên chuyển đến FOB 2 Kontum.

Trong thời điểm này, mỗi FOB có khoảng từ 10 đến 15 Toán. Nhưng vì không đủ sĩ quan nên các Toán Trưởng được bổ sung là Hạ Sĩ Quan, hoặc các Biệt Kích Quân giỏi và có khả năng. Trước đó, FOB 2 Kontum là doanh trại quân xa của Tiểu Khu Kontum. Lúc mới nhận, trại rất chật chội. Mọi người đều phải ngủ trên ghế bố, kể cả Biệt Đội Trực Thăng KingBee 219. Công Binh Mỹ làm việc ngày đêm. Nhưng sau một chuyến hành quân 7 ngày trở về, tôi đã thấy có đầy đủ phòng ngủ, phòng ăn, câu lạc bộ, nơi chiếu phim, v.v. Mỗi toán đều có 1 phòng riêng biệt, rộng rãi và thoải mái. Đến khoảng giữa năm 1967, tôi bàn giao Toán Ohio cho Văn minh Huy, và đổi về C&C Đà Nẵng. Ở Đà Nẵng được khoảng 2 tháng, buồn quá nên tôi xin đổi về Phú Bài, và coi Đại Đội Thám Sát. Cuối năm 1967, tôi được giải ngũ. Trong đợt này, SLL có 3 người được giải ngũ là: anh Nguyễn văn Ôn Khóa 13, anh Trần trung Ginh Khóa 14, và tôi Khóa 15 Thủ Đức. Nhưng giải ngũ còn đang đi phép thì xảy ra vụ Tết Mậu Thân... Thế là bị gọi tái ngũ lại, xách ba-lô trở ra lại Phú Bài. Mới vắng Huế có mấy tháng, nay trở ra lần này thấy Huế chịu trận Tết Mậu Thân bị đổ nát tiêu điều! Khắp thành phố Huế, gần như mọi người đều chít khăn tang. Trong khi đó, nhiều tỉnh lỵ trong miền
Nam vẫn còn đang giao tranh với VC.

Khoảng giữa tháng 5 năm 1968, tôi nhận được lệnh đi xuống Thất Sơn, tỉnh Châu Đốc để tuyển mộ người Miên vào Biệt Kích. Cùng đi với tôi là 1 HSQ Mỹ và 1 thông dịch viên người Miên lai Hoa, thông thạo tiếng Anh-Pháp-Việt và Miên. Những người Miên này thường được gọi là “Khmer Kampuchea Krom” hay là “KKK”, có nghĩa là những người Miên ở miền dưới, chứ không phải trên Cao Miên. Có thời gian họ ly khai, kéo quân vào mật khu chống lại chính phủ miền Nam, và chống luôn cả Việt Cộng. Họ có tổ chức đến cấp tiểu đoàn, sau này trở về quy thuận với chính quyền miền Nam. Chúng tôi đến gặp vị dân biểu người Miên ở quận Tri Tôn, sau đó được giới thiệu đi gặp Ông Lục Cả, vị Sư lớn nhất của vùng Thất Sơn. Chúng tôi trình bày và xin được phép tuyển mộ lính Miên, và ông cũng chấp thuận. Vài hôm sau, họ gom lại thành từng Trung Đội, Đại Đội, cùng các cấp chỉ huy tập trung tại Trung Tâm Huấn Luyện Chi Lăng chờ C130 đến đón về Phú Bài. Có điều lạ là có người mang theo vợ con, và cũng có cả ông Lục (Ông Sư) tháp tùng theo nữa!

Trong khoảng thời gian cuộc tấn công Mậu Thân đợt 2, vào một buổi chiều, tôi được lệnh cùng mấy HSQ Mỹ đem 1 Đại Đội Miên về Sài Gòn bằng C130 ngay trong đêm. Về đến Sài Gòn cũng đã 2-3 giờ khuya, cả Đại Đội ngủ dọc dài theo các hành lang trong Sở. Riêng nhóm HSQ Mỹ thì về số 10 đường Nguyễn minh Chiếu. Sáng hôm sau, tôi dựa theo các bài tấn công trong thành phố đem ra hướng dẫn, dùng các phòng trong Sở để huấn luyện Đại Đội Miên. Phần các HSQ Mỹ thì họ nói gần, nói xa là họ không tham dự. Buổi chiều, tôi theo SQ Trưởng Phòng 3 vào Chợ Lớn đường Tổng đốc Phương gần hãng xà bông VN thăm dò chiến trường, vì có nhiều nhóm VC còn đang chiếm các cao ốc gần đó. Chung tôi dự tính kế hoạch là sẽ dùng trực thăng đu dây xuống.

Thật ra, kế hoạch này nếu dùng cho toán Thám Sát thì rất tốt, nhưng nếu dùng cho Đại Đội Xung Kích thì lại không thuận lợi bằng. Ngày hôm sau, tôi nghe nói phía đối nhiệm Mỹ không bằng lòng sử dụng Đại Đội Xung Kích trong nhiệm vụ này. Thế là được lệnh ngày hôm sau trở về lại Phú Bài. Thật sự thì tôi không “mặn” với Đại Đội Xung Kích Miên trong nhiệm vụ này cho lắm, bởi vì tiếng Việt họ nói cũng không rành, và nhất là họ cũng chưa từng sống trong các thành phố lớn, chưa quen các ngõ ngách, nhà cửa trong thành phố.

Lực Lượng Xung Kích Miên (Hatchet Forces) và các cố vấn Hoa Kỳ lên đường hành quân. Khoảng giữa năm 1968, tôi đổi về Tiền Doanh 6, Hồ ngọc Tảo, Thủ Đức. Trại này bên LLĐB Mỹ mới bàn giao cho MAC-SOG nên cán bộ VN rất ít. Thời gian này chưa thành lập các toán Việt Nam, mà người Mỹ thì không được quyền xâm nhập vào đất Miên, do đó chúng tôi chỉ hành quân bên này biên giới, từ Đức Lập chạy dài xuống tới Tây Ninh. Căn cứ địa 352 và 353 có 2 khu Mỏ-Vẹt và Lưỡi-Câu nằm tại đây. Vùng này rất nặng, các toán chạm địch liên miên. Nửa năm sau, Tiền Doanh 6 di chuyển về Ban mê Thuột nhập chung với Tiền Doanh 5 để trở thành Chiến Đoàn 3 (CCS). Đến giữa năm 1969 thành lập Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật 32 Quản Lợi và căn cứ xuất phát Quản Lợi. Tôi về Quản Lợi từ lúc đó cho đến đầu năm 1972, và sau đó thuyên chuyển lên Chiến Đoàn 2 phụ tá cho Chiến Đoàn Trưởng Đỗ văn Tiên. Mấy tháng sau, tôi bàn giao với Trung tá Tiên để Trung tá Tiên đổi về BCH/NKT. Vào lúc này, quân ta mất Tân Cảnh sau khi bao vây Kontum gần 3 tháng nhưng không chiếm được “Kontum Kiêu Hùng”. Vòng đai phòng thủ của Kontum bây giờ có đường bán kính khoảng từ 20 đến 25 cây số. Phía Bắc thì đến Võ Định, phía Tây thì đến Poleiken Sông Pô-kô, phía Đông chưa đến chân dải Ngọc Long, phía Nam thì QL-14 đi Pleiku vẫn còn thông thương.

Tuy Sư đoàn 23 và Biệt Động Quân vẫn kiểm soát được Chu Pao, nhưng thỉnh thoảng VC vẫn lén ra phục kích và bắn xẻ. Có một lần xe CĐ2 đi Pleiku bị bắn xẻ, khiến cho em gái Thiếu úy Phước của CĐ2 đi quá giang xe bị bắn chết. Trong giai đoạn này, CĐ2 không còn hành quân xâm nhập ngoại biên nữa. CĐ đuợc đặt dưới quyền điều động của Quân Đoàn 2, và thường xuyên được tăng phái cho Sư Đoàn 22 hoặc Sư Đoàn 23/BB trong các mặt trận lớn của 2 Sư Đoàn này. Đầu năm 1975, Đoàn 2 dời trại lên Pleiku đóng ở Biển Hồ, và cho đến tháng 3/1975 cùng với Quân Đoàn 2 di tản về Sài Gòn.

Trong suốt hơn 10 năm phục vụ SLL, tôi đã làm việc gần như ở bất cứ nơi nào có căn cứ của Sở. Chỉ có những khoảng thời gian ngắn như thời gian ở bên Lào, thời gian mấy tháng giải ngũ, hoặc tham dự các khóa huấn luyện Rừng Núi Sình Lầy ở Mã Lai, khóa Đại Đội Trưởng, khóa Bộ Binh Cao Cấp, là rời các cuộc hành quân mà thôi. Tôi đã phục vụ qua 5 đời Chỉ Huy Trưởng SLL, từ những ngày đầu với Đ/T Hồ Tiêu, kế đến là Đ/T Liêu quang Nghĩa, Đ/T Nguyễn văn Minh, Đ/T Nguyễn bá Trước và sau cùng là Đ/T Nguyễn minh Tiến, mỗi người đều là những vị chỉ huy tài ba, gương mẫu, thân thiện và cởi mở với thuộc cấp, được mọi người kính phục và thương yêu. Bây giờ còn 2 vị đang sống ở Mỹ: Đ/T Minh và Đ/T Nghĩa. Đ/T Liêu quang Nghĩa sức khỏe vẫn còn tráng kiện, không vắng mặt mỗi kỳ Đại Hội NKT nào cả. Riêng các Chiến Đoàn Trưởng thì đã ra đi khá nhiều, gồm có: N/T Nguyễn tuấn Minh, N/T Hồ châu Tuấn, N/T Ngụy Hiền, N/T Trang, N/T Nhã và N/T Tiên. Phần các N/T ở tại BCH Sở thì có N/T Ngô văn Hùng đã chết ở Bắc Việt trong thời gian cải tạo. Gần đây thì N/T Lê quang Tiềm, và N/T Trần đắc Trân cũng mới ra đi. Cầu xin cho các N/T và các C/H đang sống ở quê nhà hay quê người, cá nhân và gia đình được nhiều sức khỏe. Có gặp được nhau nhớ và nhắc lại những chiến tích kiêu hùng, thân ái ngày xưa.

Lê Minh 


Sở Liên lạc, Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa (WIKIPEDIA)

Sở Liên lạc, về sau đổi thành Sở Khai thác địa hình, là một cơ quan đặc biệt phụ trách các hoạt động gián điệp biệt kích thời Đệ Nhất Cộng hòa. Được thành lập năm 1956, trực thuộc Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, cơ quan này có nhiệm vụ tuyển mộ, huấn luyện gián điệp biệt kích cũng như tổ chức các hoạt động thu thập thông tin tình báo, bắt cóc, phá hoại các mục tiêu quân sự sâu trong vùng kiểm soát của đối phương.

Ngày 15 tháng 3 năm 1963, Sở Khai thác địa hình được tổ chức thành Bộ tư lệnh Lực lượng Đặc biệt và được chuyển thuộc sang Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa.

HÌNH THÀNH

Tháng 2 năm 1956, sau khi tiếp nhận căn cứ GCMA (Groupement de Commandos Mixtes Aéroportés, Lực lượng biệt kích không vận hỗn hợp) của Pháp tại Nha Trang, với sự trợ giúp của Phái bộ Cố vấn Quân sự (Military Assistance Advisory Group - MAAG) Mỹ tại Việt Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã cho thành lập Trung tâm Huấn luyện Biệt động đội, nhằm xây dựng cơ sở huấn luyện biệt kích cho Việt Nam Cộng hòa. Về tổ chức, trung tâm này được đặt dưới quyền quản lý của Nha Tổng Nghiên Huấn, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Việt Nam Cộng hòa.

Cuối năm 1956, theo khuyến cáo của cơ quan tình báo Hoa Kỳ, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã giải thể Nha Tổng Nghiên Huấn[1]. Các bộ phận tình báo chiến lược và phản gián được chuyển về cho Sở Nghiên cứu Chính trị Xã hội. Một cơ quan đặc trách các hoạt động tuyển mộ, huấn luyện biệt kích được thành lập với tên gọi 'Sở Liên lạc, trực thuộc Phủ Tổng thống, hoạt động với ngân sách do Mỹ đài thọ. Giám đốc và Phó giám đốc Nha Tổng Nghiên Huấn là Trung tá Lê Quang Tung và Đại úy Trần Khắc Kính được bổ nhiệm làm Giám đốc và Phó giám đốc Sở Liên lạc.[1]

TỔ CHỨC

Ngày 1 tháng 1 năm 1959, để yểm trợ tài chính và kỹ thuật cho các hoạt động biệt kích tại Việt Nam, với sự đồng ý của Tổng thống Diệm, bộ phận CIA tại Việt Nam, dưới vỏ bọc "Nhóm Nghiên cứu hỗn hợp" (Combined Studies Group) thuộc Tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, đã phối hợp với Sở Liên lạc thành lập 3 trung tâm huấn luyện biệt kích tại Long Thành (Biên Hòa), Mỹ Khê (Đà Nẵng) và Phú Bài (Huế). Mặc dù trên danh nghĩa, các trung tâm này do Sở Liên lạc phụ trách, do Trung tá Lê Quang Tung và Thiếu tá Lê Khắc Kính làm Giám đốc và Phó giám đốc, tuyển mộ các quân nhân của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, nhưng thực chất mọi hoạt động chỉ đạo và điều hành đều do các cố vấn trưởng là Đại tá Smith và Đại tá Bell chỉ huy.[2]

Bấy giờ, tổ chức Sở Liên lạc gồm những bộ phận sau:

  • Phòng 35: đặc trách công tác huấn luyện, thanh tra, tổ chức và chỉ huy các hoạt động hành quân...
  • Phòng 45 (còn gọi là Phòng E hay Sở Bắc): đặc trách tổ chức các hoạt động thu thập thông tin tình báo chiến lược tại miền Bắc, sau mở rộng ra cả Campuchia và Lào.
  • Phòng 55 (còn gọi là Sở Nam): đặc trách tổ chức các gián điệp bí mật tại miền Nam trong trường hợp những người Cộng sản kiểm soát được miền Nam, sau mở rộng phạm vi tổ chức các hoạt động biệt kích trên lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa.
  • Phòng 65: đặc trách an ninh quân đội, phụ trách phản gián trong quân đội Việt Nam Cộng hòa.
  • Phòng 75: đặc trách công tác quản lý, thu thập và lưu giữ hồ sơ cùng những tài liệu mật có liên quan đến các hoạt động của Sở Liên lạc.
  • Phòng 85: đặc trách công tác quản lý tài chánh và hành chánh.
  • Phòng 95: đặc trách công tác liên lạc cũng như tổ chức và huấn luyện chuyên viên truyền tin.

Bên cạnh các phòng chuyên môn trên, còn có các toán biệt kích, tổ chức thành một đơn vị ngụy trang dưới tên gọi Liên đội quan sát số I.[2]. Đơn vị về sau được nâng lên cấp Liên đoàn, tương đương quy mô cấp Trung đoàn.

Đa số nhân viên Sở Liên lạc là người gốc miền Bắc. Sở do Cố vấn Ngô Đình Nhu trực tiếp chỉ đạo, các sĩ quan Việt Nam chỉ huy, riêng các hoạt động biệt kích đều do các cố vấn Mỹ trực tiếp quản lý, điều hành và huấn luyện[2].

Tháng 4 năm 1960, Sở Liên lạc được đổi tên thành Sở Khai thác Địa hình. Tuy nhiên, chức năng, tổ chức và nhân sự của cơ quan này vẫn không có gì thay đổi.

PHÁT TRIỂN THÀNH LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT

Mặc dù phạm vi công tác tình báo khá rộng, nhưng trên thực tế, Sở Liên lạc tập trung vào công tác tuyển mộ, huấn luyện biệt kích. Chính do nhiệm vụ này, trong các phòng chuyên môn, Phòng 45 hay Sở Bắc, phụ trách các hoạt động tung gián điệp biệt kích ra miền Bắc; và Phòng 55 hay Sở Nam, phụ trách các hoạt động biệt kích tại miền Nam, đóng một vai trò rất quan trọng.

Bên cạnh đó, một nhiệm vụ khác, tuy không chính thức, nhưng được xem là ưu tiên nhất của Sở Liên lạc là chỉ huy lực lượng cơ động tinh nhuệ chuyên dùng để bảo vệ Phủ Tổng thống chống những cuộc đảo chính. Chính vì vậy, mặc dù các hoạt động tung gián điệp biệt kích ra miền Bắc tỏ ra kém hiệu quả, quân số của Liên đoàn quan sát số 1 vẫn phát triển không ngừng. Tháng 11 năm 1961, Liên đoàn quan sát số 1 được cải danh thành Liên đoàn 77. Tháng 2 năm 1963, Liên đoàn 31 được thành lập. Ngày 15 tháng 3 năm 1963, Tổng thống Diệm ra quyết định thành lập Lực lượng đặc biệt trên cơ sở bộ máy của Sở Khai thác địa hình và 2 đơn vị tác chiến là Liên đoàn biệt kích 77 và 31. Về nguyên tắc, Lực lượng đặc biệt được chuyển thuộc sang Bộ Quốc phòng, có quy mô tương đương cấp Lữ đoàn, nhưng trên thực tế, Tổng thống có toàn quyền điều động đơn vị này thông qua một cơ quan chỉ huy trực tiếp là Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống, mà thực chất chính các Bộ chỉ huy Lực lượng đặc biệt, do Đại tá Lê Quang Tung làm Chỉ huy trưởng.

Tài liệu từ WIKIPEDIA

2 -Sở Liên lạc (Biệt kích Lôi Hổ) đóng tại Sài Gòn. Sở có các Chiến đoàn 1 tại Đà Nẵng, Chiến đoàn 2 trên Kon Tum và Chiến đoàn 3 tại Ban Mê Thuột. Các toán thuộc Sở Liên lạc có nhiệm vụ xâm nhập vào hậu tuyến đối phương từ vĩ tuyến 17 trở ra, những đợt xâm nhập này thường là thăm dò các vị trí hậu cần, kho xăng và bắt sống quân nhân Cộng sản Bắc Việt.

No comments:

Post a Comment

Sở Liên Lạc Nha Kỹ Thuật BTTM - QLVNCH

Thành Lập Sở Liên Lạc Sở Liên Lạc Nha Kỹ Thuật chính thức thành lập vào tháng 1 năm 1964 tại Sài gòn Chỉ Huy Trưởng là Trung Tá Hồ Tiêu sa...